Tổng hợp các câu hỏi thường nhận được về tiêm vắc xin phòng COVID-19 ở bệnh nhân tim mạch
Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp như hiện nay, tính đến giữa tháng 6/2021 cả nước ta đã ghi nhận hơn 10.000 ca bệnh mắc COVID – 19, với 4 đợt bùng phát dịch, nhận thức được vấn đề cấp bách hiện nay để đạt được mục tiêu “kép” đó là vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế hiệu quả thì Chính phủ và Bộ Y tế đã đưa ra chiến lược then chốt đó là Tiêm chủng vắc xin và thực hiện tốt các biện pháp 5K. Việc triển khai tiêm vắc xin đang được tiến hành tích cực trong toàn quốc cho các đối tượng ưu tiên cũng như cho toàn dân, với mục tiêu nhanh nhất tiêm chủng được cho ít nhất 70% dân số và sớm đạt được miễn dịch cộng đồng.
Đối với đối tượng bệnh nhân có bệnh lý tim, được xác định là nhóm có bệnh nền phức tạp, có nguy cơ cao tiến triển nặng hoặc xảy ra các biến chứng phức tạp nếu mắc COVID -19. Vì vậy để phòng ngừa nhiễm COVID – 19 cho bệnh nhân có bệnh lý tim mạch là việc hết sức cần thiết, ngoài việc tuân thủ tốt các biện pháp phòng dịch, duy trì thuốc tim mạch đều đặn thì việc tiêm vắc xin cho bệnh nhân tim mạch là vấn đề cần thực hiện sớm. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề thắc mắc từ phía bệnh nhân về lợi ích và nguy cơ của việc này.
Trên diễn đàn Bệnh nhân của Hội tim mạch Châu âu (European Society of Cardiology – ESC) đã nhận được rất nhiều câu hỏi về việc tiêm chủng vắc xin ngừa coronavirus (COVID-19). Đây là một tổng hợp các khuyến nghị hữu ích từ các cơ quan có thẩm quyền và hiệp hội y khoa quốc tế. Quý đồng nghiệp và bệnh nhân có thể tham khảo và chia sẻ tới cộng đồng nói chung và bệnh nhân tim mạch nói riêng để góp phần chung tay thực hiện tốt chiến lược phòng chống dịch bệnh do Chính phủ đề ra, bảo vệ sức khỏe nhân dân, ổn định tình hình đất nước.
Lưu ý: Tài liệu này cung cấp thông tin cơ bản cho bệnh nhân tim mạch về vắc xin COVID-19. Nó không nhằm thay thế cho lời khuyên, chẩn đoán hoặc điều trị y tế.
1. Có phải tất cả bệnh nhân tim mạch đều được khuyên nên tiêm vắc-xin hay có các tiêu chuẩn loại trừ cụ thể nào không?
Điều quan trọng là tất cả bệnh nhân mắc các bệnh tim mạch nên được tiêm chủng phòng ngừa COVID-19. Vắc xin không nhất thiết ngăn mọi người lây nhiễm COVID -19, nhưng nó sẽ làm giảm khả năng mắc bệnh nghiêm trọng có thể phải nhập viện và có thể dẫn đến tử vong. Những người bị bệnh tim có thể có nhiều nguy cơ tử vong do COVID-19 vì nhiễm trùng gây căng thẳng cho tim thông qua một số cơ chế, bao gồm cả tình trạng viêm trực tiếp ở tim. Vì vậy, điều cần thiết là tất cả bệnh nhân bị bệnh tim phải chấp nhận việc tiêm chủng khi được đề nghị. Trừ khi bạn có chống chỉ định nói chung với tiêm chủng như đang dùng thuốc ức chế miễn dịch liều cao, đang bị bệnh lý cấp tính, phụ nữ có thai, cho con bú… Để có thông tin chi tiết thêm về các đối tượng này xin tham khảo trong hướng dẫn tiêm chủng vaccine COVID -19 của Bộ Y tế.
Bệnh nhân bị bệnh tim mạch thường bao gồm những mặt bệnh sau: người bị tăng huyết áp, rung nhĩ, đau thắt ngực, bệnh cơ tim, bệnh tim bẩm sinh, tiểu đường, sa sút trí tuệ, suy tim, ghép tim, huyết khối, thuyên tắc phổi, bệnh mạch máu ngoại vi (xơ vữa động mạch), đột quỵ não hoặc cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua.
2.Tác động của vắc-xin đối với những người có bệnh tim tiềm ẩn (trong tình trạng cấp tính cũng như khi tình trạng đó đang được kiểm soát do dùng thuốc)?
Các thử nghiệm vắc xin COVID-19 bao gồm những bệnh nhân bị bệnh tim và không cho thấy bất kỳ ảnh hưởng nghiêm trọng nào từ vắc xin ở những bệnh nhân này. Những phàn nàn phổ biến nhất ở tất cả các bệnh nhân bao gồm đau tại chỗ tiêm, mệt mỏi, nhức đầu, đau cơ hoặc ớn lạnh. Cánh tay có thể cứng và đau trong vài ngày. Mệt mỏi và ớn lạnh là thứ phát sau tác động của hệ thống miễn dịch nhận biết các protein của virus là ngoại lai. Nó không có nghĩa là vắc xin đã dẫn đến nhiễm COVID-19. Có thể là, trong lần tiêm vắc xin thứ hai khi phản ứng miễn dịch với vắc xin có xu hướng tăng hơn, những bệnh nhân bị bệnh tim nặng và thường khó thở khi nghỉ ngơi có thể cảm thấy mệt hơn một chút do sốt nhẹ và các triệu chứng giống cảm cúm. Những hiệu ứng này sẽ tồn tại trong thời gian ngắn, thông thường khoảng 2 tới 4 ngày sau tiêm.
Một phản ứng dị ứng nghiêm trọng (sốc phản vệ) có khả năng làm cho bệnh nhân bị bệnh tim rất nặng. Tuy nhiên, rủi ro này là cực kỳ hiếm, tỷ lệ gặp chỉ khoảng 1/2.000.000 người tiêm. Lợi ích của việc chủng ngừa lớn hơn nhiều so với nguy cơ bị phản ứng dị ứng nghiêm trọng.
3.Có bất kỳ tương tác nào của vắc-xin với các thuốc chữa bệnh tim không?
Không có báo cáo về tương tác giữa vắc-xin và thuốc điều trị bệnh tim. Điều cần thiết là không được bỏ các loại thuốc điều trị bệnh tim trước hoặc sau khi tiêm vắc-xin. Một số bệnh nhân đang sử dụng thuốc chống đông máu có thể bị đau, sưng và bầm tím xung quanh vết tiêm (xem câu 5).
4.Tôi uống thuốc ức chế miễn dịch do ghép tim. Thuốc ức chế miễn dịch có thể xung đột với vắc-xin COVID-19 không?
Các vắc-xin hiện được chấp thuận sử dụng không chứa vi-rút sống, do đó, không có nguy cơ gây nhiễm trùng cho những bệnh nhân có hệ miễn dịch kém, kể cả những bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế miễn dịch. Các vắc-xin hiện tại bao gồm vật chất di truyền của vi rút được đưa vào tế bào và thúc đẩy quá trình tổng hợp một protein đột biến của vi rút. Chỉ riêng protein đột biến là vô hại nhưng đủ để được công nhận là ngoại lai và kích hoạt phản ứng phòng vệ của hệ thống miễn dịch. Trong trường hợp gặp phải vi rút thực sự trong cơ thể, hệ thống miễn dịch ghi nhớ sẽ phản ứng mạnh mẽ với protein tăng đột biến để tiêu diệt vi rút.
Những bệnh nhân có phản ứng miễn dịch bị suy giảm (như điều trị các thuốc ức chế miễn dịch, thuốc chống thải ghép) có thể không đáp ứng mạnh với vắc xin chủng ngừa và sẽ phải tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng ngừa bổ sung ngay cả khi đã được tiêm chủng.
5.Tôi đang dùng thuốc chống đông máu và thường xuyên tiêm vắc-xin, như tiêm phòng cúm mùa, loại này chỉ tiêm dưới da, không tiêm vào cơ do nguy cơ chảy máu. Tôi nghe nói phải tiêm vắc xin COVID-19 vào bắp thịt. Tôi nên làm gì để giảm nguy cơ bị chảy máu của mình?
Nhiều bệnh nhân bị bệnh tim dùng thuốc chống đông máu như warfarin (hay còn gọi là thuốc đối kháng vitamin K) hoặc thuốc chống đông máu đường uống trực tiếp (DOACS) như Xarelto, Pradaxa… Một số bệnh nhân cũng dùng thuốc chống kết tập tiểu cầu như aspirin, clopidogrel, ticagrelor hoặc prasugrel. Những bệnh nhân này có nhiều nguy cơ bị chảy máu sau chấn thương, bao gồm cả việc bị kim đâm vào cơ bắp tay khi tiêm chủng COVID-19. Có thể dự đoán rằng nguy cơ bầm tím hoặc sưng tấy xung quanh vết tiêm sẽ tăng nhẹ ở những bệnh nhân này. Nên sử dụng một cây kim nhỏ (cỡ 23 hoặc 25) để tiêm chủng, sau đó ấn mạnh vào vết thương mà không cọ xát trong ít nhất hai phút. Bệnh nhân cần được thông báo về nguy cơ tụ máu do tiêm. Bệnh nhân đang sử dụng warfarin, được cập nhật với xét nghiệm INR theo lịch trình và với INR của họ dưới mức cao hơn của phạm vi điều trị có thể được tiêm bắp. Không giống như vắc-xin cúm, vắc-xin COVID-19 chỉ có thể được tiêm dưới dạng tiêm bắp.
6.Tình trạng bệnh tim có làm cho tôi dễ bị tổn thương hơn đối với các chống chỉ định (đặc biệt là sốc phản vệ) không?
Hiện tại không có bằng chứng nào cho thấy tình trạng bệnh tim làm tăng nguy cơ bị chống chỉ định đối với vắc-xin. Như với tất cả các trường hợp, bệnh nhân bị bệnh tim nên thông báo cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe nếu họ đã từng bị phản ứng phản vệ nghiêm trọng với vắc-xin tiêm và họ không nên chủng ngừa. Những người đã có phản ứng nghiêm trọng với các chất khác (không liên quan đến vắc-xin), ví dụ như thuốc uống hoặc thức ăn…, vẫn có thể tiêm được vắc-xin nhưng sẽ cần được theo dõi tại phòng khám trong tối đa 30 phút sau đó. Bệnh nhân nên tránh tiêm vắc-xin trong thời gian đang bị sốt (bệnh lý khác gây sốt).
7.Sau lần tiêm đầu tiên, tôi có thể trở lại hành vi bình thường không, ví dụ: tôi có thể hòa nhập với mọi người, tôi có cần đeo khẩu trang, tiếp tục vệ sinh tay không, tôi có thể ôm mọi người không?
Vắc xin, có hiệu quả trong 75-95% các trường hợp, nó không hoàn toàn ngăn chặn mọi người khỏi nhiễm bệnh và bị bệnh, mặc dù nó làm giảm đáng kể mức độ nghiêm trọng của bệnh trong trường hợp bị nhiễm. Hiện vẫn chưa rõ liệu một cá nhân đã được tiêm chủng có thể truyền vi-rút cho người khác hay không. Tuy nhiên, dựa trên những gì đã biết về vắc-xin cúm và thông tin thu được từ những người đã bị nhiễm COVID-19, các nhà nghiên cứu hy vọng rằng vắc-xin sẽ ngăn ngừa sự lây truyền.
Vì tất cả những lý do này, mọi người cần phải thường xuyên đeo khẩu trang ở những nơi công cộng, giữ khoảng cách an toàn và rửa tay cẩn thận ngay cả khi đã được tiêm phòng.
Cũng cần nhấn mạnh rằng phản ứng miễn dịch sẽ không bắt đầu đáp ứng đủ để ngăn ngừa nhiễm bệnh trong khoảng 10 ngày ngay sau khi tiêm chủng.
8.Tôi hiểu rằng tôi cần phải tiêm vắc xin hai lần. Nó phải là cùng một loại vắc xin COVID-19, hay bạn có thể trộn nhiều loại vắc xin khác nhau từ lần tiêm chủng thứ nhất đến lần tiêm chủng thứ hai?
Tốt nhất, liều đầu tiên và liều thứ hai phải là cùng một loại vắc xin. Bạn có thể nhận được một loại vắc xin khác nhau cho mỗi liều trong những trường hợp đặc biệt, ví dụ, nếu loại vắc xin đó không còn nữa, hoặc không có hồ sơ về loại vắc xin nào đã được tiêm cho liều đầu tiên. Tất cả các loại vắc xin hiện có đều dựa trên protein đột biến, do đó, có khả năng liều thứ hai sẽ giúp tăng cường phản ứng với liều đầu tiên, ngay cả khi đó là một loại vắc xin khác.
9.Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không tiêm liều vắc xin thứ hai trong khoảng thời gian khuyến cáo?
Mặc dù khả năng miễn dịch sẽ đạt được sau 12 ngày kể từ ngày tiêm liều đầu tiên của vắc-xin, nhưng cần phải có hai liều để tăng cường phản ứng miễn dịch. Dữ liệu thử nghiệm từ vắc xin Pfizer BioNTech cho thấy rằng hiệu quả đạt được là 95% nếu tiêm liều vắc xin thứ hai sau 21 ngày. Không có dữ liệu nào cho thấy rằng sự bảo vệ sau 21 ngày được duy trì ở những người không nhận được liều vắc xin thứ hai tại thời điểm này, mặc dù có khả năng sẽ có một số miễn dịch cho đến liều thứ hai. Thông tin được thu thập bởi các nhà điều tra vắc xin Astra Zeneca cho thấy rằng khoảng cách dùng thuốc trong 8-12 tuần có thể làm tăng hiệu quả. Hầu hết các quốc gia đang hướng tới việc tiêm chủng cho càng nhiều người với liều đầu tiên càng nhanh càng tốt và trì hoãn liều thứ hai tối đa, nhưng không quá 12 tuần.
10.Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương với các bệnh lý về tim hoặc hô hấp do vậy hiện nay có được tiêm vắc xin hoặc xem xét như thế nào?
Nghiên cứu vắc xin COVID-19 mới chỉ bắt đầu ở trẻ em và do đó có rất hạn chế dữ liệu về tính an toàn và đáp ứng miễn dịch ở nhóm này. Các vắc xin COVID-19 được phê duyệt cho đến nay vẫn chưa được thử nghiệm ở trẻ em, nhưng một số công ty hiện đang bắt đầu cho trẻ em thử nghiệm. Hơn nữa, dữ liệu cho thấy trẻ em dưới 18 tuổi chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các trường hợp COVID-19 được báo cáo (ở một số quốc gia là 1%), với tỷ lệ tử vong tương đối ít so với các nhóm tuổi khác và thường là bệnh nhẹ. Vì vậy, hầu hết trẻ em không được coi là đủ điều kiện để chủng ngừa ở giai đoạn hiện nay. Trẻ em có nguy cơ cao bị nhiễm vi rút (miễn dịch chưa phát triển đầy đủ hoặc dị tât thần kinh nặng) hoặc bị bệnh nặng (mắc bệnh tim và phổi nặng) được coi là có nguy cơ cao và sẽ được ưu tiên theo các tiêu chuẩn cụ thể ở từng quốc gia nếu vắc xin đã được chấp thuận sử dụng cho trẻ em. Trong khi đó, vì ở một số quốc gia, việc tiêm chủng cho những người chăm sóc cho đối tượng trẻ em này đã được đề xuất nhằm ngăn chặn các nhóm nguy cơ cao bị lây nhiễm bởi chính những người chăm sóc đó, việc tiêm chủng có thể được cung cấp cho cha mẹ của những đứa trẻ có nguy cơ bị bệnh cao. Mới nhất, ngày 10/5/2021 Hoa Kỳ đã cấp phép có thể tiêm vắc xin Pfizer-BioNTech cho trẻ từ 12 tuổi trở lên trong tình huống khẩn cấp, các loại khác chưa có khuyến cáo.
11.Tôi là một bệnh nhân bệnh tim và có con dưới 18 tuổi. Tôi đã đọc rằng con tôi không đủ điều kiện để tiêm chủng. Điều đó có vấn đề gì đối với tôi? Ngay cả khi tôi đã được tiêm chủng, liệu tôi có nguy cơ bị nhiễm vi-rút từ con mình cao hơn không?
Tiêm vắc-xin làm giảm nguy cơ bị bệnh nặng hoặc tử vong do nhiễm COVD-19 nếu bạn bị nhiễm bệnh. Nhiễm trùng nghiêm trọng và tử vong do COVID-19 rất hiếm gặp ở người trẻ dưới 18 tuổi. Do đó, rất khó để biện minh cho việc tiêm vắc-xin cho nhóm tuổi này vào thời điểm nguồn cung vắc-xin đang gặp khó khăn để cung cấp cho các đối tượng nguy cơ cao hơn (lực lượng tuyến đầu, an ninh, quốc phòng, người có bệnh lý nền…). Bạn nên tiếp tục duy trì và khuyến khích trẻ duy trì các thói quen an toàn để giảm nguy cơ lây nhiễm vi-rút. Bạn nên yên tâm rằng vắc-xin sẽ bảo vệ bạn khỏi những hậu quả nghiêm trọng trong trường hợp nhiễm COVID-19.