Tuổi dù cao, mà không bệnh hoạn, thì sức khỏe tương đối vẫn còn khả quan.
Tuy nhiên cơ thể về già, cũng như cái máy xe hơi chạy trên trăm ngàn dặm, có những bất thường, chẳng giống ai. Ta mất đi một số khả năng thích ứng với ngoại cảnh và bệnh tật, nên đã đau thì thường trầm trọng hơn và kéo dài lâu hơn. Dấu hiệu bệnh không giống như ở người trẻ. Chẳng hạn khi sưng phổi thì ta hay than phiền mệt mỏi, yếu sức toàn thân, rối loạn tâm thần, còn người trẻ thì có triệu chứng rõ ràng như ho, nóng sốt.Trong quá trình khám và chẩn đoán bệnh, người thầy thuốc có kiến thức tâm lý
học nhìn nhận người bệnh một cách toàn diện, giúp cho việc điều trị một cách tối ưu.
Nhiều bệnh tật do các căn nguyên tâm lý thì không thể điều trị khỏi bệnh chỉ đơn thuần
bằng thuốc men, mà phải sử dụng phối hợp các phương pháp tâm lý học để tác động lên
người bệnh. Nói chung tất cả các người bệnh đều có những rối loạn tâm lý chung, lo lắng
chung khi mắc bệnh, người thầy thuốc phải hiểu được những đặc điểm tâm lý chung của
người bệnh để vận dụng trong khi đối thoại, thăm khám và tác động tâm lý bên cạnh việc
sử dụng các phương pháp điều trị khác.
I.KHÁM LÂM SÀNG TÂM LÝ
Người thầy thuốc phải áp dụng tâm lý học để góp phần hoàn thiện phương pháp
chẩn đoán, điều trị đồng thời hoàn thiện các phẩm chất tâm lý và uy tín của thầy thuốc.
Vì vậy thầy thuốc phải có kiến thức về tâm lý và phải rèn luyện phẩm chất của người
thầy thuốc.
1.Khái niệm
Khám lâm sàng tâm lý thực chất là mở rộng lâm sàng y học, chú ý thêm những
đặc điểm tâm lý. Có lẽ tốt nhất người thầy thuốc đồng thời là một nhà tâm lý học.
Lâm sàng y học bắt đầu với sự quan sát toàn bộ, rồi hỏi triệu chứng, sau đó thăm khám
các bộ phận về lâm sàng và cận lâm sàng để đi đến kết luận cuối cùng.
Khám lâm sàng tâm lý cũng không khác bao nhiêu, ban đầu người thầy thuốc lâm
sàng để ý đến mặt thể chất là chủ yếu, thì người thầy thuốc tâm lý quan tâm đến cá tính
nhân cách.
Làm tâm lý phải nhạy cảm trước từng con người, nhận đoán được tình hình, xác định
được một số nét đặc biệt, nhưng dĩ nhiên không thể ngừng ở cách nhận xét trực giác cảm
tính mà phải có phương pháp, bài bản.
2.Cách hỏi bệnh
Trong khám bệnh bước đầu phải chú ý phần hành chánh qua đàm thoại trực tiếp
với người bệnh những thông tin về tên họ, tuổi, quê quán, trú quán, quan hệ gia đình,
kinh tế văn hóa , nghề nghiệp của người bệnh giúp ích rất nhiều cho thầy thuốc tìm hiểu
nguồn gốc đặc điểm tâm lý bệnh nhân tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành mối
quan hệ tốt về tâm lý với người bệnh trong quá trình điều trị, góp phần khám chữa bệnh
có kết quả toàn diện.
Người có bệnh thực thể dễ tự quan sát mình một cách tương đối khách quan, còn đã rối
nhiễu tâm lý thì lại hiểu mình một cách tương đối sai lệch, nên cần hỏi thêm người thân ,
bạn bè, nhưng cũng cần cảnh giác. Người thầy thuốc cần thông cảm nhưng khách quan để
cho bệnh nhân tự nhận xét, không áp đặt ý kiến của mình.
Thông thường nên hỏi trước về tiền sử, như vậy dễ hiểu hơn những gì mới xuất
hiện. Khai thác tiền sử bệnh rất quan trọng trong tâm lý học chẩn đoán và điều trị, khai
thác tiền sử giúp chúng ta biết bệnh bắt đầu lúc nào, diễn biến ra sao, bệnh nhân suy nghĩ,
tưởng tượng về bệnh mình ra sao, đánh giá nguyên nhân và tiên lượng bệnh.
3.Khai thác tiền sử
3.1.Tiền sử cá nhân
Có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu nhân cách người bệnh, người thầy thuốc
lâm sàng phải đánh giá lịch sử đời sống người bệnh thật tỉ mỉ và ghi vào hồ sơ bệnh án
không bỏ sót, nghiên cứu lịch sử đời sống cho phép đi sâu và lòng người, thâm nhập vào
thế giới nội tâm con người, nhờ quá trình đàm thoại người thầy thuốc xây dựng quan hệ
tâm lý khá tốt, khắng khít với bệnh nhân, mối quan hệ này hổ trợ tốt trong quá trình điều
trị. Quá trình đàm thoại phải xảy ra nhiều lần mới có thể nắm chắc được cá tính, giúp ta
khái niệm đầy đủ về một con người cho ta bức tranh hoàn chỉnh về bệnh nhân đó. Trong
đàm thoại cần tạo điều kiện cho bệnh nhân kể về tiền sử của mình, thầy thuốc cần chú ý
tính tình, ham muốn , tình cảm, nguyện vọng…Cần chú ý khai thác trạng thái sức khỏe
chung, rối loạn giấc ngủ, tính tình, biến đổi khí sắc, tính nết. Những điều này đặc biệt
quan trọng đối với các bệnh nội khoa, thường những biến đổi này xuất hiện rất sớm trước
khi có các biểu hiện, các triệu chứng thực thể bệnh lý
Những người mắc tâm bệnh thường thích kể chuyện về bản thân và ôn lại cuộc đời, qua
câu chuyện có thể quan sát cách nói, cách suy nghĩ và phán đoán…Nên ghi chép lại lời
nói của bệnh nhân và từ đó để có hướng theo dõi tiếp.
3.2.Tiền sử gia đình
Cần đi sâu vào tiền sử gia đình, ngoài các biểu hiện tâm lý rõ nét, nên hiểu qua cá
tính các thành viên trong gia đình, đây là vấn đề tế nhị vì người ta thường hay che đậy
những chuyện nội bộ của gia đình, hay dùng những ngôn từ ngụy trang và cũng để tự dối
bản thân. Nhớ để ý các trường hợp sinh đôi, sự quan tâm đặc biệt quá trình mấy năm đầu,
mặt khác quan sát cách bệnh nhân kể lại tuổi thơ của miình, thời kỳ học sinh , đặc biệt là
những rối nhiễu thời kỳ tuổi dậy thì.Một triệu chứng có thể chỉ nhất thời hay kéo dài, có
khi ở người này là một phản ứng bình thường, ở người khác là báo hiệu một bệnh nặng.
Ở tuổi thanh niên cần hỏi rõ nghề nghiệp chọn theo sở thích hoặc bị động, chức
vụ, tính ổn định hay không trong công việc, năng lực, tính tình, quan hệ vợ chồng giữa bố
mẹ và con cái, những sự cố xảy ra trong thời kỳ có thai và nuôi con đều có tác động sâu
sắc.
3.3.Về tiền sử bệnh tật
Không chỉ chú ý đến bệnh nặng, mà nhiều khi những triệu chứng được xem là nhẹ
kiểu đau đầu, đau xương , uể oải, ăn khó tiêu thường lại là triệu chứng ngụy trang của
những rối nhiễu tâm lý. Một điểm rất khó xác định là những triệu chứng hiện hữu có phải
trước kia đã biểu hiện dưới một hình thức nào đó chăng.
Nhiều khi đối tượng không tự xem mình là có bệnh mà lại than phiền với người thầy
thuốc là vợ hay chồng mình bị rối nhiễu, có khi trong một cặp vợ chồng người khám
bệnh lại bị bệnh nhẹ hơn, mà người không tự nhận là mình có rối nhiễu lại bị nặng.
III.ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TRONG KHÁM BỆNH
1.Thầy thuốc và bệnh nhân
1.1.Thầy thuốc:Trong xã hội, cùng với bố mẹ, cán bộ nhà nước ( ngày xưa gọi là ông
quan) còn có những ông thầy: Thầy giáo, thầy thuốc, thầy tu( thầy cúng, thầy mo..)
Đặc điểm của người thầy là:
-Không có quan hệ huyết thống với đối tượng.
-Không sử dụng quyền lực nhà nước như ông quan
-Không tác động lên vật chất như người thợ mà tác động lên con người
Để tác động lên con người, người thầy phải:
– Nắm được một học thuật nhất định. “Thuật” tức là cách làm, “học” là vốn kiến thức có
hệ thống, có bằng cấp hay chức vị
– Không có quyền lực nhưng được 2 bên thỏa thuận cho nên có thể tìm hiểu những tình
tiết thầm kín của con người như có thể cởi áo quần để khám, hỏi về tâm tư riêng, quan hệ
nội bộ, vì vậy người thầy phải giữ bí mật nghề nghiệp, không được phổ biến những gì
thầm kín đã phát hiện.
– Cần có tinh thần trách nhiệm, làm hết khả năng đối với người bệnh.
– Phải đối xử bình đẳng với mọi người, không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo.
– Tránh đặt người bệnh vào thế thụ động, chỉ biết nhờ vào sự giúp đỡ của người khác.
Cần lưu ý về khía cạnh tâm lý tính chủ động của đương sự là rất quan trọng. Tác động cả
về mặc ý thức và vô thức. Tác động thông qua ngôn ngữ và cả những tín hiệu phi ngôn
ngữ. Vì vậy một đức tính cần thiết là người thầy cần cảm nhận được những phản ứng phi
ngôn ngữ và vô thức của bản thân khi đứng trước người này, người khác, đứng trước
những thái độ hay hành vi này khác. Không có đức tính này, không thể làm thầy được.
1.2.Về phía bệnh nhân
– Có quyền đòi hỏi sự giúp đỡ của người thầy và đặt tín nhiệm vào sự tận tình và hiểu
biết của người thầy.
– Có nhiệm vụ làm đúng theo những chỉ định của người thầy như cần nghỉ ngơi, cách ly.
– Cần tích cực hợp tác với người thầy và có những cố gắng bản thân.
Như vậy mối quan hệ giữa người thầy, là bác sĩ hay là nhà tâm lý với bệnh nhân
là một mối quan hệ đặc biệt, dựa trên nhiều yếu tố tâm lý xã hội, và phần nào pháp lý.
Chưa nói đến thuốc men, hay bất kỳ biện pháp trị liệu nào được đề xuất, chỉ riêng việc
tiếp xúc với người thầy, mối quan hệ qua lại giữa hai bên trong quá trình khám và chữa
đã có tác dụng trị liệu. Trong y học thường nói bản thân người thầy thuốc đã là một vị
thuốc, nhiều khi còn quan trọng hơn một hóa chất nào đó.
Có thể diễn ra những tình huống:
– Bệnh nhân hôn mê, lên cơn cuồng động, trong tình trạng cấp cứu hoàn toàn bị động,
người thầy hoàn toàn chủ động.
– Người thầy chủ động chẩn đoán và chỉ định cách chữa, bệnh nhân hợp tác.
– Bệnh kéo dài qua nhiều giai đoạn hay bước ngoặt đòi hỏi nhiều sự thay đổi trong tâm tư
hay cuộc sống của người bệnh. Đây là trường hợp phức tạp, nhiều khi chính người thầy
cũng đâm ra lo hãi rồi viện lẽ này lẽ khác để thoái thác như thiếu thì giờ, như đôí trách
nhiệm sang cho một chuyên khoa khác và chuyển đến thầy này hay thầy khác.
2.Những đặc điểm tâm lý trong khám bệnh
Phòng khám yên tỉnh không có ai ra vào trong lúc khám, trong những trường hợp
phức tạp không để sinh viên tham dự, người thầy không ngồi gần quá cũng không xa quá,
thường không nên trực diện, mặt đối mặt mà ngồi né một bên. Có khi cần khám với sự có
mặt của người thân, có khi chỉ cần có một mình bệnh nhân, không nên khám hỏi quá vội
vàng cũng không kéo dài quá. Khi khám người thầy vận dụng một số thao tác : Quan sát,
hỏi han, khám và thử nghiệm, ba thao tác này quyện vào nhau, không nhất thiết cái trước,
cái sau theo một trình tự nhất định.
Khi hỏi bệnh nên để người bệnh tự nói ra nhưng không để bệnh nhân nói thao
thao bất tuyệt, và cuối cùng hỏi một số câu vào những điểm chưa được nói đến hoặc chưa
rõ ràng.
Hỏi bệnh là một “kỹ thuật” cần được tiến hành chặt chẽ, vừa là một “nghệ thuật” cần
được tiến hành một cách linh động.
Trong lúc khám thông qua những câu hỏi, đối đáp làm cho người bệnh yên tâm và
cũng có dịp để tâm sự những điều thầm kín của mình để giải tỏa bớt.
Người bệnh thường bắt đầu nói triệu chứng hiện đang làm rối nhiễu cuộc sống: Một triệu
chứng hoặc mang tính thể chất, như đau nhức hay rối loạn một chức năng sinh lý nào đó,
hoặc mang tính chất tâm lý như quên, thay đổi tính tình hoặc xung đột trong cuộc sống
xã hội. Điều đầu tiên là phân tích kỹ triệu chứng trên cơ sở hiểu biết nhất định về các loại
bệnh chứng và rối nhiễu tâm lý, mặc dù sự phân tích triệu chứng đầu tiên chưa nhất thiết
dẫn đến chẩn đoán. Cần tìm hiểu tính chất của triệu chứng như thời điểm xảy ra và
những tình huống, tình tiết có liên quan ví dụ: uể oải xãy ra vào buổi sáng sau khi ngũ
dậy hay buổi chiều sau khi lao động về.
Khám nghiệm tâm lý có thể tiến hành sau , trước hay cùng một lúc với khám y khoa.
Bác sĩ Y khoa vừa đồng thời biết tâm lý là rất thuận lợi.
Không phải lúc nào khám y khoa cũng cho những kết quả rõ ràng, trong nhiều trường
hợp, thầy thuốc không tìm ra một tổn thương thực thể nào, rồi đó gọi là triệu chứng chức
năng, đối với thầy thuốc chưa học tâm lý điều này nói lên sự bất lực của y học, rồi hoặc
bỏ qua, hoặc đưa đâíy bệnh nhân đến chuyên khoa tâm thần.
Những rối nhiễu tâm lý có thể gặp ở tất cả các chuyên khoa, những triệu chứng thực thể
dẫn đến thầy thuốc như: nhức đầu, nhức xương, rối loạn tim mạch, nhiều khi chỉ là một
cách vô thức kêu cứu để mong có sự giúp đỡ về tâm lý, đằng sau những triệu chứng là
những nỗi khổ, nan giải trong cuộc sống..
Tóm lại: Ngay từ lúc đầu trong quá trình khám quan sát theo dõi dáng mạo, tư thế , cách
đứng ngồi, cử động, nét mặt, nếp nhăn ở trán, đôi mắt quầng đen, nét mặt bi?n động, nhìn
thẳng hay tránh né, nhìn xuống đất hay ngẫng đầu. Về ngôn ngữ có thể mất luôn hay
ngập ngừng, tự nói hay chỉ trả lời câu hỏi, rụt rè, giọng nói cao thấp, ngôn ngữ thô lỗ, tế
nhị…
Quan sát tư thế, vận động , ngôn ngữ có thể thực hiện trong lúc tiếp xúc giữa hai bên.
Người thầy có kinh nghiệm sau buổi tiếp xúc đã thu thập những thông tin có giá trị (con
mắt tinh đời) hoặc vận dụng một số trắc nghiệm vận động, ngôn ngữ.
3.Chẩn đoán tâm lý
Sau khi tập hợp được các thông tin thu được trong khám nghiệm cần vẽ ra được
toàn bộ nhân cách của người bệnh với những mặt như thể trạng, trí năng, văn hóa, cá
tính.
-Trong phần chẩn đoán bệnh cần chú ý chẩn đoán phần nhân cách và trạng thái tâm lý
người bệnh trên những nét tâm lý đại cương. Có loại người nghi bệnh, trầm cảm , bi
quan, ngược lại có loại người lạc quan vô tư quá mức hoặc mặc kệ coi thường bệnh tật vì
vậy việc xác định nhân cách và trạng thái tâm lý của người bệnh trong mối liên quan với
bệnh tật và hoàn cảnh gây bệnh, hình ảnh bên trong của bệnh và đặc điểm nhân cách bên
ngoài của ngưòi bệnh là điều rất cần thiết. Dựa vào sự đánh giá nhân cách và trạng thái
tâm lý người bệnh để đề ra nghệ thuật tiếp xúc, chẩn đoán tâm lý , điều trị tâm lý.
Tóm lại thấy rõ “con người ” chứ không phải như trong y học chỉ thấy “ca bệnh”,
tệ hơn nữa chỉ thấy một triệu chứng, một đặc điểm nào đó (Huyết áp, điện não, điên tâm
đồ…)
Câu hỏi đầu tiên là: Con người này khỏe hay yếu. Khỏe cần hiểu theo nghĩa là có khả
năng thích nghi với mọi biến động trong môi trường, đáp ứng với những đòi hỏi và thách
thức trong lao động và cuộc sống. Thách thức không những về thể lực mà cả về tâm trí.
Câu hỏi thứ 2 là: Con người này dại hay khôn, có thể đặt các câu hỏi, gợi ý kể chuyện và
đánh giá qua những yếu tố cơ bản:
-Trí nhớ
-Khả năng chú ý vào một điểm nào đó
-Khả năng định hướng trong không gian
-Khả năng định hướng thời gian
-Đánh giá khả năng suy tư
-Đánh giá khả năng suy luận phán đoán
IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁC ĐỘNG TÂM LÝ
1.Mục đích
– Vận dụng kiến thức và phẩm chất tâm lý y học vào công tác điều trị
– Vận dụng tâm lý y học để tác động lên bệnh nhân các quá trình tâm lý, trạng thái tâm
lý, đặc điểm tâm lý cá nhân.
– Áp dụng tâm lý y học tham gia tích cực vào công tác điều trị toàn diện, điều trị bằng
tâm lý để rút ngắn ngày điều trị.
2.Yêu cầu
– Người thầy thuốc là một nhà tâm lý học, có kiến thức y học và tâm lý học, có phẩm chất
đạo đức y học của người thầy thuốc Xã Hội Chủ Nghĩa
– Luôn rèn luyện phẩm chất tâm lý, áp dụng tâm lý học hai chiều ( tác động cho bệnh
nhân và cho chính mình)
3.Ý nghĩa
– Điều chỉnh các rối loạn hiện tượng tâm lý ( cảm giác , tâm trạng, nhân cách, …)
– Bình thường hóa nhận thức về bệnh tật không hoang mang lo sợ.
– Thích nghi với môi trường bệnh viện cũng như ở nhà
– Nâng cao nhận thức phòng bệnh, tự phấn đấu loại trừ các bệnh chức năng do nguyên
nhân tâm lý.
– Cũng cố tâm lý bệnh nhân qua các giai đoạn bệnh lý
– Chuẩn bị cho bệnh nhân về sống hài hòa với gia đình và xã hội
4.Các phương pháp tác động tâm lý bệnh nhân
4.1.Phương pháp gián tiếp
– Tâm lý môi trường tự nhiên: Quang cảnh , cây xanh, vườn hoa, bóng mát, phòng bệnh,
trang thiết bị, khí hậu , nhiệt độ, màu sắc ( tùy theo bệnh lý để có màu sắc thích hợp có
tác động tâm lý bệnh nhân (đen xám ức chế gây buồn, bệnh nhân tim mạch lo sợ màu đỏ,
60% bệnh nhân cường giáp thích màu tím ….)
– Tâm lý môi trường xã hội:Sự tác động của gia đình , cơ quan, xóm làng, tinh thần thái
độ Bác sỹ , y tá , hộ lý..
4.2.Phương pháp tác động trực tiếp
– Lời nói: Nhỏ nhẹ , dịu dàng, khuyến khích an ủi bệnh nhân
– Ám thị bằng lời nói : Thầy thuốc ám thị bệnh nhân để bệnh nhân tin tưởng, an tâm điều
trị,
– Thôi miên ( ám thị trong giấc ngủ): Bác sỹ cho bệnh nhân đi vào giấc ngủ bằng lời nói,
ám thị , hoặc những kích thích đơn điệu đều đều. Bệnh nhân được ngũ không hoàn toàn
có khoảng tỉnh dành cho bác sỹ thôi miên điều khiển, bệnh nhân chỉ nghe theo hướng dẫn
của thầy thuốc về chữa bệnh và làm theo lời bác sỹ. Trong thôi miên người bệnh chịu ảnh
hưởng rất lớn của thầy thuốc . Chữa bệnh thôi miên có kết quả đối với những bệnh rối
loạn chức năng.
– Điều trị nhóm: Thầy thuốc điều khiển một nhóm bệnh nhân trao đổi lẫn nhau để chữa
bệnh
– Dùng chế phẩm thuốc Placebos.
– Các phương pháp không dùng thuốc: Dưỡng sinh thái cực quyền, yoga, giải trí, thể
thao, du lịch..
– Tâm lý học điều trị trong điều trị toàn diện
– Giữ bí mật cho bệnh nhân: Bệnh nhân nào cũng có nỗi niềm riêng không muốn cho
người khác biết thầy thuốc phải giữ bí mật cho bệnh nhân nếu điều đó không ảnh hưởng
đến an ninh xã hội. Đối với bí mật có hại thầy thuốc phải biết phân tích vận động để bệnh
nhân xử thế đúng đắn. Những bí mật có hại cho xã hội thầy thuốc phải ngăn chặn và đồng
thời báo các ngành hữu quan.
– Phải có lập trường giai cấp trong phục vụ bệnh nhân: Trong khám chữa bệnh không
phân biệt đối xử giàu nghèo, già trẻ, xấu đẹp.. Đối với người lao động , người có công,
cần được quan tâm,thể hiện tình cảm giai cấp , gần gũi họ
– Chú ý công tác truyền thông GDSK trong thời gian điều trị
– Chống đau đớn cho bệnh nhân: Chống đau là vấn đề hết sức quan trọng trong tâm lý y
học, thầy thuốc phải chú ý điều trị bằng tâm lý kết hợp với các loại thuốc an thần , chống
đau.., không nên điều trị chống đau kéo dài mà chủ yếu điều trị bằng tâm lý hoặc dùng
thuốc thế phẩm (placebo) làm cho bệnh nhân yên tâm tin tưởng
– Điều trị bằng tâm lý : Các nhà khoa học đều thấy trên 80% bệnh có thể tự khỏi mà
không cần điều trị, vì vậy trong điều trị phải áp dụng điều trị bằng tâm lý. Trong thực tiễn
có nhiều bệnh do nguyên nhân tâm lý nếu không chữa khỏi bằng tâm lý bệnh có thể
chuyển từ cơ năng thành thực thể, tồn tại suốt đời. Điều trị tâm lý có thể kết hợp thuốc,
xoa bóp…
– Giải quyết tốt các khâu đối với bệnh nhân ra vào viện: Từ phòng bảo vệ đến phòng tiếp
đón đến phòng khám đến bệnh phòng các khâu phải hoàn chỉnh, chăm sóc chu đáo. Khi
chuyển khoa phải đả thông và có cán bộ đưa đi. Khi ra viện phải có hướng dẫn cụ thể nếu
được thỉnh thoảng có thể đến thăm lại bệnh nhân. Khi bệnh nhân hấp hối phải tích cực
hết lòng cứu chữa, nếu bệnh nhân chết phải làm tốt quy chế đối với người bệnh tử vong:
ít nhất có hai Bác sỹ chứng kiến, vuốt mắt, thay áo.. và đưa đến nhà vĩnh biệt thì chú ý
phong tục tập quán tôn giáo, theo yêu cầu của gia đình.