Hà thủ ô được cho là một vị thuốc bổ của đông y và có tác dụng làm tóc bạc hóa đen, người già hóa người trẻ. Hiện tại ở Việt Nam có hai loại là hà thủ ô đỏ, và hà thủ ô trắng. Hôm nay caythuocdangian.com sẽ giới thiệu cho bạn đọc các đặc điểm và công dụng của nó thông qua tài liệu được trích từ cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi.
Cây Hà thủ ô đỏ là gì
Hà thủ ô đỏ còn được gọi là cây địa tính, thủ ô, địa tính, dạ hợp, mần ăng ón ( Thổ). Tên khoa học của cây Polygonum multiflorum Thunb Fallopia multiflora hoặc Pteuropterus cordatus Turcz). Thuộc giống họ rau răm Polygonaceae. Hà thủ ô đỏ ( Radix Polygoni multiflori) là rễ củ đã được phơi khô.
Lịch sử Hà thủ ô đỏ
Trong cuốn bản thạo cương mục có ghi về lịch sử hình thành của Hà thủ ô: đây là thừ thuốc có tên là giao đằng, sau này do ông Hà Thủ Ô uống nên mới đổi tên. Hà Thủ Ô là người sống ở huyện Nam Hà, Thuận Châu, có cha là Điền Tú và tổ tiên tên là Năng Tự.
Năng Tự có tên là Điển Nhi, khi sinh ra yếu ớt, đến năm 58 tuổi vẫn chưa lấy vợ sinh con. Điển Nhi ham võ thuật, theo các thầy học đạo ở trên núi. Vào một ngày say rượu nằm ở sườn núi bỗng thấy 2 gốc cây leo cách nhau khoảng 1m. Lá, cành quấn vào với nhau, một đoạn lại tách rồi lại quấn lại với nhau. Thấy cây lạ, ngày hôm sau Điền Nhi đào củ và đem về hỏi mọi người.
Mọi người đều không biết là củ gì. Một hôm có ông già từ phương xa đến, Điền Nhi có hỏi nhưng ông giá cũng không biết. Ông nói: A đã không có con mà lại gặp được loại cây lạ như thế này có thể là thần tiên ban cho, nên đem sắc và uống.
Điền nhi liền đem phơi khô, tán thành bột, mỗi lần uống 4gam ( hòa với rượu). Uống liền trong 7 ngày và đã nảy ra ý tưởng về tình dục.Uống trong vài tháng, người trở lên khỏe mạnh như người thường. Do vậy nên uống mãi, rồi tăng lượng lên 8g, và uống trong thời gian dài hơn một năm. Các bệnh tật đều khỏi, tóc đang trắng hóa đen, vẻ mặt lại trẻ đẹp hơn như trai trẻ.
Trong vài năm mới sinh được con trai, vì vậy đổi tên là Năng Tự. Cùng với Điền Tú uống thứ bột đó mà thọ đến 160 tuổi. Điền Tú sinh ra Thủ Ô, Thủ Ô cũng có vài người con trai, thọ cũng đến 130 tuổi, tóc vẫn còn đen. Lý An Kỳ là bạn thân của Thủ Ô, lấy được thuốc trên về uống cũng sống rất thượng thọ nên kể lại truyện trên. Đây là ghi lại lịch sử để hiểu tác dụng của Hà Thủ Ô của người dùng cổ xưa.
Mô tả cây Hà thủ ô đỏ
Hà thủ ô còn được gọi là Giao đằng vì thân dây leo quấn xoắn vào với nhau, hoặc được gọi là dạ hợp vì đến đêm chúng quấn vào với nhau. Tên khoa học: Polygonum multiflorum, multiflorum là loại nhiều hoa, polygonum là loại có nhiều mắt, nhiều đốt.
Đây là loại dây leo, có tuổi thọ đến vài năm, thân cây mọc xoắn lại với nhau. Mặt ngoài thân của cây thường có màu xanh tía, có thêm vân hoặc mặt thân nhẵn, không có lông. Lá cây mọc so le nhau, có cuống dài, phiên lá của cây có hình tim, nhỏ chiều dài từ 4 cm đến 8 cm, chiều rộng 2,5 cm đến 5 cm.
Đầu lá nhọn, phía cuối lá có hình tim, mép hơi lượn sóng hoặc mép nguyên, hoặc hình mũi tên. Lá mỏng, có màu hơi nâu nhạt và ôm lấy thân, hoa bé, bán kính khoảng 1 mm ( đường kính 2mm) có cuống ngắn từ 1mm đến 3mm. Hoa được mọc thành nhiều cùm, nhiêu nhánh, cánh hoa có màu trắng.
Nhị hoa số 3 và số 8 hơi dài hơn so với các nhị khác. Bầu 3 cạnh có vòi gồm 3 cánh, nuốm hình màu gà, rời nhau và rũ xuống. Hoa thường được nở vào cuối tháng 10, và có quả vào tháng 11.
Phân bố, thu hái và chế biến Hà thủ ô đỏ
Hà thủ ô được mọc hoang ở rừng, đặc biệt ở các tỉnh miền núi. Các tỉnh có nhiều cây mọc nhất là Tây Bắc, sau đó đến các tỉnh như Thanh Hóa, Tây Nguyên, Nghệ An, Lai châu, Lào Cai. Ngoài ra cây còn được mọc ở Trung Quốc ( tỉnh Phúc Kiến, Giang Tô, Tứ Xuyên, Quảng Đông, Hồ Bắc). Cây có thể được trông bằng hạt hoặc bằng dây. Sau khoảng từ 4 năm đến 5 năm mới có thể thu hoạch.
Cây mọc hoang được thu hoạch thường vào mua xuân hay mua thu. Mua thu thì sẽ tốt hơn, đào củ về rửa sạch, cắt nhỏ ra thành 3 hoặc 4 hoặc 5 tùy kích thước củ đồ rồi phơi khô ( có nơi không đồ). Muốn có Hà Thủ Ô thành miếng thì hái về lúc còn tươi, thái và đồ chín rồi phơi, hoặc đồ chín rồi mới thái và phơi.
Nhiều người đồ thủ ô với đậu đen, đồ xong phơi khô, xong lại đồ lại với đậu đen. Làm đi làm lại 9 cho miếng hà thủ ô đen rồi mới sử dụng. Được gọi là Hà thủ ô chế.
Thành phần hóa học của Hà thủ ô đỏ
Hà thủ ô được các nhà giáo sư người Nhật tiến hành nghiên cứu từ những năm 1923. Theo các tác giả của Tứ Xuyên thì Hà thủ ô có các chất:
Chất đạm 1.1%, chất vô cơ 4.5%, tinh bột 45.2%, các chất tan trong nước 26.4%, chất béo 3.1% và lexitin.
Ngoài ra còn có chất anthraglucozit với tỉ lệ 1.7% bao gồm chủ yếu là emodin, chrysophanola và rhein.
Lexitin là một photphatit là kết quả của sự kết hợp giữa axit glyxerophotphoric với 1 phân tử cholin và 2 phân tử axit béo. Lexitin được dùng trong những trường hợp bị thần kinh suy nhược, thiếu chất dinh dưỡng.
Các chất Anthragllucozit có tác dụng xúc tiến sự co bóp của ruột, tăng bài tiết của dịch tràng và cải thiện dinh dưỡng.
Tác dụng dược lý Hà thủ đô đỏ
Trong báo cáo Nhật dược chí của Mẫn Bính Kỳ đã nói về các tác dụng của hà thủ ô đỏ như sau:
1. Để thỏ uống nước sắc của Hà thủ rồi để theo dõi ảnh hưởng của chúng sau đó khoảng 30 phút đến 60 phút về lượng đường trong máu. Lượng đường trong máu tăng rất cao và giảm dần sau 6h tiếp theo. Sau dó lượng đường trong máu thấp hơn khoảng 0.03%.
2. Lexitin là thành phần chính của hệ thần kinh do đó Hà thủ ô có thể dùng được khi bị các bệnh về thần kinh và suy nhược thần kinh. Lexitin còn có tác dụng giúp bổ tim và sinh huyết.
Dung dịch chất Lexitin pha loàng khoảng 1/10.000 đến 1/200.000 thì có các tác dụng làm khỏe tim cô lập. Trong trường hợp tim yếu thì sẽ càng thầy rõ rệt hơn. Lexitin có chưa photpho dễ hấp thụ và hỗ trợ đắc lực cho sự chuyển hóa chung được cải thiện.
3. Thành phần anthraglucozit đã giúp cho Hà thủ ô có chức năng là xúc tiến sự tiếu hóa, co bóp của ruột và cải thiện dinh dưỡng.
Công dụng và liêu dùng Hà thủ ô đỏ
Hiện nay, Hà thủ ô được dùng như một vị thuốc quý trong dân gian làm thuốc bổ trị các bệnh về thần kinh, suy nhược cơ thể, khỏe gân cốt, ích huyết, làm đen râu tóc và sống thọ hơn.
Đối với phụ nữ, cây được dùng để hỗ trợ điều trị các bệnh sau khi sinh, các bệnh xích bạch đới. Một số các tác dụng trê cần được kiểm tra lại bằng lâm sàng. Liều dùng: hàng ngày uống từ 12 gam đến 20 gam dưới dạng thuốc bột hoặc thuốc rượu hoặc thuốc sắc.